Theo icon.evn.com.vn - 08/09/2011

Đây là nội dung chính được nhiều chủ đầu tư đề cập đến trong Hội nghị tổng kết tình hình thực hiện Quy hoạch Điện VI và bàn các giải pháp triển khai Quy hoạch Điện VII do Bộ Công Thương tổ chức vào sáng 8/9. Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng cũng cho rằng, ngoài những cơ chế, chính sách để đẩy nhanh tiến độ các dự án điện đã được Chính phủ ban hành từ Quy hoạch Điện VI, trong Quy hoạch Điện VII cần có thêm những cơ chế, chính sách mới để đáp ứng yêu cầu về tiến độ và chất lượng các dự án.

* Vì sao Quy hoạch VI không đạt khối lượng ?

Thực hiện Quy hoạch Điện (QHĐ) VI, tổng công suất nguồn xây dựng và đưa vào vận hành trong giai đoạn 2006-2010 khoảng trên 10.000 MW, so với công suất dự kiến đưa vào trong QHĐ VI chỉ đạt gần 70%. Lưới điện truyền tải cũng chỉ đạt trên dưới 50% khối lượng quy hoạch. Đánh giá một số nguyên nhân chính do Vụ Năng lượng (Bộ Công Thương) đưa ra tại hội nghị là do hầu hết các dự án điện đều thiếu vốn. Bên cạnh đó, các chủ đầu tư phải dàn trải nguồn vốn hạn hẹp, nguồn nhân lực hạn hẹp cùng lúc vào một số lượng lớn các dự án nhưng công tác điều hành chưa thực sự quyết liệt, chưa ưu tiên đúng mức những dự án trọng tâm. Bản thân các nhà thầu dự án cũng không đủ năng lực, kể cả năng lực tài chính dẫn đến kéo dài thời gian xây dựng, các công trình xây dựng xong vận hành không ổn định, liên tục phải dừng máy để sửa chữa, thay thế, hiệu chỉnh. Trong khi đó, việc đầu tư phát triển sản xuất các thiết bị điện trong nước cũng chưa theo kịp nhu cầu, dẫn đến ta bị phụ thuộc nhiều vào thiết bị nhập khẩu.

Trong Quy hoạch đã xác định các nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) than ở miền Nam sẽ sử dụng than nhập khẩu nhưng mấy năm qua, việc nhập khẩu than không thành công. Cụ thể các nhà cung cấp than lớn như Ô-xtrây-li-a, In-đô-nê-xi-a đã có thị trường và chưa cân đối lượng than bán cho Việt Nam. Trong khi đó, hình thức mua bán than hiện nay là cùng đầu tư vào khai thác mỏ với chủ mỏ than hoặc phải mua than với điều kiện không cam kết dài hạn, giá cả theo thị trường và cũng tăng cao gấp hai lần so với giai đoạn 5 năm trước. Do đó, các dự án NMNĐ than miền Nam như Vĩnh Tân I, II và Duyên Hải I phải thêm thời gian thay đổi thiết kế, chuyển sang sử dụng than trong nước.

Đối với các công trình xây dựng lưới điện, sau thiếu vốn là việc chuẩn bị mặt bằng, hành lang tuyến, bồi thường, hỗ trợ tái định cư tại các dự án gặp rất nhiều khó khăn, làm kéo dài thêm thời gian xây dựng từ 6 tháng đến hàng năm. Mà nguyên nhân chính được nhận định là thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền địa phương nơi có dự án với chủ đầu tư; chưa có tính nhất quán, còn có sự chồng chéo trong các quy hoạch như quy hoạch phát triển điện ở địa phương, quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ, quy hoạch điện quốc gia.

Một vấn đề nữa được nhiều chủ đầu tư đưa ra là tuy giá điện được Chính phủ xem xét điều chỉnh 3 lần trong 5 năm qua nhưng còn thấp, chưa đủ để vừa bù chi phí sản xuất, vừa có tích lũy tái đầu tư cũng như chưa loại bỏ yếu tố trượt giá và tăng tỷ giá ngoại tệ. Vì vậy, giá điện chưa hấp dẫn các nhà đầu tư tham gia thị trường phát điện, giảm gánh nặng vốn cho Nhà nước. Cũng do giá điện ở Việt Nam thấp so với mặt bằng giá điện khu vực nên dẫn đến hệ lụy nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã xây dựng hàng loạt các nhà máy sản xuất thép, xi măng... vượt cả chỉ tiêu kế hoạch ngành trong 10 năm tới để hưởng lợi từ giá điện rẻ.

Về các cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện QHĐ VI như 797, 400 và 1195 cũng bộc lộ những hạn chế. Cụ thể như do chỉ định thầu nên đã bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém về năng lực thực hiện dự án của các nhà thầu được chọn, thiết bị công nghệ bị cấp chậm và không đồng bộ. Nhiều dự án triển khai trong cùng thời gian nên nhân lực, thiết bị, vốn của chủ đầu tư, nhà thầu thiếu. Tính về kinh tế, do chỉ định thầu nên chi phí xây dựng phụ thuộc nhiều vào thời gian, do vậy công tác quản lý chi phí có nhiều phức tạp, thường xuyên phải điều chỉnh dẫn tới công tác thanh toán phải kéo dài, vượt dự toán ban đầu. Các vấn đề thay đổi trên công trường cũng phải điều chỉnh nhiều khiến nhà thầu không chủ động được vì liên quan đến chi phí, thanh toán, gây kéo dài thời gian thực hiện và không đáp ứng tiến độ.

* Đề xuất các cơ chế, giải pháp thích hợp

Có thể khẳng định: cơ chế đặc thù có vai trò quan trọng trong từng giai đoạn nhất định nhưng chưa đủ, đôi khi nếu không xác định được phạm vi và mức độ ưu tiên thì có thể dẫn đến những hạn chế không cần thiết đối với chất lượng và giá thành dự án. Hơn nữa, để chuẩn bị cho QHĐ VII và hướng tới thị trường điện trong thời gian tới, việc vận hành các cơ chế ưu tiên cần được xem xét kỹ lưỡng để có những hỗ trợ về mặt cơ chế, chính sách cho phù hợp nhằm đảm bảo tính công bằng và minh bạch giữa các dự án và các chủ đầu tư.

Tập đoàn Sông Đà kiến nghị Chính phủ nếu tiếp tục áp dụng các cơ chế 797, 400 và 1195 trong QHĐ VII, cần phải có quy định cụ thể về thời điểm phê duyệt thiết kế, tổng dự toán và ký hợp đồng. Cùng chung quan điểm này, đại diện Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) cũng cho rằng tiếp tục áp dụng cơ chế này sẽ rút ngắn quá trình lựa chọn Nhà thầu thực hiện dự án. Hơn nữa, Nhà thầu được chọn đã được kiểm nghiệm năng lực qua các dự án đã thực hiện, có điều kiện phát huy và áp dụng các giải pháp tối ưu rút ra từ các dự án trước đó, góp phần rút ngắn thời gian thực hiện, nâng cao hiệu quả dự án.

Đại diện Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) bày tỏ cần sớm vận hành thị trường điện cạnh tranh từ ngày 1/1/2012 và thực hiện giá bán điện theo Thông tư 41/2010/TT-BCT ngày 14/12/2010 của Bộ Công Thương nhằm tạo sự công bằng, mạnh bạch cho các chủ đầu tư khi đàm phán và ký hợp đồng mua điện với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Đồng thời các ngành chức năng tiếp tục xem xét, đơn giản hóa một số thủ tục, trình tự, quy định trong công tác đầu tư xây dựng các dự án nguồn điện, tiến hành song song nhiều công việc một lúc trong quá trình chuẩn bị đầu tư như đền bù giải phóng mặt bằng (GPMB), san gạt mặt bằng, lập dự án đầu tư, lập thiết kế kỹ thuật-tổng dự toán (nếu cần thiết), lập hồ sơ mời thầu...sau khi quy hoạch địa điểm được Bộ Công Thương phê duyệt để rút ngắn thời gian chuẩn bị, đẩy nhanh tiến độ thực hiện.

Về phía EVN, Tập đoàn chiếm 58,3% tổng số các dự án nguồn điện của QHĐ VII với tổng công suất 11.594 MW, Phó Tổng Giám đốc Dương Quang Thành đề xuất cơ chế giao các chủ đầu tư dự án nguồn điện ngoài EVN chịu trách nhiệm đầu tư lưới điện đến điểm đấu nối lưới điện hiện có theo quy hoạch được duyệt. Vốn đầu tư công trình lưới điện đấu nối được tính vào tổng mức đầu tư của dự án nguồn điện và được hạch toán vào chi phí giá thành mua bán điện. Đồng thời ưu tiên các nguồn vốn ODA và các nguồn vốn song phương của nước ngoài cho các dự án điện. Riêng nguồn nhiên liệu, phải có sự tính toán kỹ trên cơ sở hiệu quả; trong đó, TKV đảm bảo cung cấp đủ than lâu dài, ổn định; PVN đảm bảo tiến độ cấp khí Tây Nam đồng bộ với 4 NMNĐ Ô Môn.

Về vấn đề GPMB, các chủ đầu tư đều có chung quan điểm tách thành tiểu dự án độc lập và giao cho UBND các tỉnh, thành phố thực hiện, như vậy tiến độ sẽ nhanh hơn, nhưng cũng cần có cơ chế chính sách để thúc đẩy địa phương nhanh chóng vào cuộc..

Đối với vấn đề thu xếp vốn đầu tư, yếu tố quyết định đảm bảo hoàn thành tiến độ các dự án điện trong QHĐ VII, Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng cho biết những chính sách vừa qua chưa giải quyết được hết các khó khăn và mấu chốt vẫn là giá điện. Nếu chưa giải quyết được vấn đề giá điện thì không thể giải quyết được bài toán đầu tư các dự án điện. Do đó, Thứ trưởng giao cho Cục Điều tiết điện lực và Vụ Năng lượng (sắp tới là Tổng Cục Năng lượng) xây dựng Lộ trình giá điện đến năm 2020 trên cơ sở tiệm cận với chi phí biên dài hạn của hệ thống điện.

Tới đây, Bộ Công Thương sẽ xây dựng cơ chế đầu tư mới trình Chính phủ dựa trên cơ chế 797, 400 và 1195 để tạo thuận lợi cho việc thực hiện QHĐ VII; đồng thời lựa chọn chủ đầu tư có đủ năng lực thực hiện dự án, có chế tài quản lý quá trình thực hiện dự án nhằm tránh tình trạng các dự án chậm tiến độ như hiện nay và nâng cao hiệu quả đầu tư.

Bên cạnh đó, sửa đổi một số điểm của Luật Đấu thầu; trong đó, quy định rõ cách đánh giá lựa chọn nhà thầu EPC, cách đánh giá các thiết bị có nguồn gốc xuất xứ khác nhau để đảm bảo lựa chọn được thiết bị có chất lượng tốt nhất, giá hợp lý; tỷ lệ nội địa hóa về chế tạo thiết bị tại Việt Nam./.